Chia sẻ những tip thiết thực

Top 7 Kiệt tác hội họa để đời trong thời kì Phục Hưng

Thời kỳ Phục hưng là thời kỳ thành công rực rỡ trong lịch sử hội họa ở phương Tây. Sau hàng trăm năm bị lãng quên, những tinh hoa văn hóa của Hy Lạp và La Mã cổ đại một lần nữa sống lại vào thế kỷ 14. Sau đó vào thế kỷ 16, toàn bộ châu Âu có thể nói đã chuyển mình sang một loại hình nghệ thuật hoàn toàn mới. Góp phần vào trang sử vàng son đó phải kể đến những kiệt tác của các họa sĩ tài hoa như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael, Paolo Veronese… – tiêu biểu cho đỉnh cao của mỹ thuật và đã được nhiều họa sĩ khác công nhận.

Bức tranh “Đám cưới ở Cana” – Paolo Veronese

Đám cưới ở Cana Paolo Veronese là một kiệt tác sơn dầu của họa sĩ người Ý Paolo Veronese, được vẽ vào năm 1563 cho tu viện Benedictine San Giorgio Maggiore ở Venice. Bức tranh mô tả Đám cưới trong Kinh thánh tại Cana, kể về phép lạ đầu tiên mà Chúa Giê-su thực hiện cho nhân loại. Cụ thể, Chúa Giê-su và các môn đồ được mời dự tiệc cưới ở Cana (nơi địa điểm này vẫn còn nhiều tranh cãi). Tuy nhiên, khi bữa tiệc đang đến cao trào thì rượu đã cạn. Trước sự bối rối của chủ gia đình, Chúa Giê-su yêu cầu các đầy tớ đổ đầy nước vào các chum, sau đó biến tất cả thành rượu mới.

Bức tranh vẽ một bữa tiệc với 130 thực khách, với Chúa Giêsu ở trung tâm. Nhưng kỳ lạ thay, 130 người đó đã làm đủ mọi thứ có thể xảy ra với một con người, ngoại trừ nói chuyện. Đây, theo phân tích của một số nghệ nhân, là một sáng tạo của Veronese khi thể hiện truyền thống của tu viện Benedictine – giữ im lặng trong phòng ăn. Phía trên là bầu trời trong xanh, mây trắng, như muốn soi sáng và tạo chiều sâu cho người xem về thời gian, địa điểm và những người được mời đến dự đám cưới. Nhưng sâu xa hơn, Veronese còn muốn nhấn mạnh đến vấn đề hoan lạc, xa hoa phi lý của xã hội đương thời, từ đó công khai chỉ trích những gì được coi là nhạy cảm ở Venice cuối thời Phục hưng. Treo.

Người ta nói rằng Veronese vẽ mình là một trong 130 khách tham dự tiệc cưới này (người mặc áo sơ mi trắng cầm Viol ngồi cạnh Titian và Bassano). Bức tranh với kích thước 666 cm x 990 cm hiện đang được trưng bày tại bảo tàng Louvre, Paris.

Đám cưới ở Cana
Đám cưới ở Cana

“Trường học Athens” – Raphael

Trường học Athens là một trong bộ tứ tranh tường của Raphael, ra đời từ năm 1509 đến 1511. Trường học Athens thể hiện sự hiểu biết triết học của Raphael như một kiến ​​thức về hiện thân của Chúa, với Plato và Aristotle ở trung tâm. trung tâm của khung cảnh, giống như Chúa Giê-xu trong bức tranh “Tiệc cưới tại Cana” của Paolo Veronese.

Tổng cộng bức tranh có hình ảnh 21 triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại như Pythagoras, Heraclitus … trong đó Plato và Aristotle được đặt ở trung tâm. Hai con người, một già – một trẻ, một đơn giản, một giản dị – hào nhoáng, dường như đang tranh luận về một vấn đề nào đó, mà hầu hết các chuyên gia đều cho rằng đó là sự khác biệt giữa hai trường phái triết học. học. Đối với Plato, đó là lý thuyết về Hình thức – trong đó “tồn tại” là phi vật chất, cái mà trí thông minh siêu nhiên có thể biết được, và “không tồn tại” là vật chất. Về phần Aristotle, ông coi tồn tại vật chất là thực và thực tại là chân lý.

Đó là hai trục tư tưởng triết học mà nhiều nhà triết học khác đi theo. Raphael không đứng về phía nào, nhưng biểu hiện của anh ấy dường như cho thấy trường phái triết học không phải để họ cạnh tranh, mà vì nhu cầu chung là tìm kiếm tri thức và chân lý của cuộc sống.

Kiệt tác của Raphael Trường học Athens.  Ở trung tâm là Plato (trái) và Aristotle (phải), xung quanh là 19 triết gia nổi tiếng khác của Hy Lạp cổ đại.
Kiệt tác của Raphael Trường học Athens. Ở trung tâm là Plato (trái) và Aristotle (phải), xung quanh là 19 triết gia nổi tiếng khác của Hy Lạp cổ đại.

Bức tranh “Chúa tạo ra Adam” – Michelangelo

Họa sĩ Michelangelo đã tạo ra bức tranh để đời của mình – Sự sáng tạo của Adam. Bức tranh tường này trên trần nhà nguyện Sistine ở thành phố Vatican được vẽ từ năm 1511 đến năm 1512. Bức tranh mô tả một giai thoại trong Sách Sáng thế, khi Chúa thổi hồn vào và tạo ra Adam – người đàn ông đầu tiên trên trái đất. thế giới. Bên cạnh giá trị về mặt hội họa, ý nghĩa của bức tranh cũng gây không ít tranh cãi trong giới mỹ thuật. Nổi bật trong số đó là ý tưởng cho rằng Michelangelo đã dựa vào cấu trúc giải phẫu của con người để thực hiện bức tranh này.

Năm 1990, Frank Meshberger công bố một nghiên cứu, tuyên bố rằng mô hình Chúa trong bức tranh của Michelangelo thể hiện chính xác cấu trúc giải phẫu của não người, với các đường nét hoàn chỉnh của bề mặt bên trong và bên ngoài não. , bao gồm thân não, thùy trán, động mạch nền, tuyến yên. Ngoài ra, có ý kiến ​​khác, cho rằng tấm vải đỏ quấn quanh Chúa là hiện thân của tử cung con người, còn dây màu xanh là dây rốn. Những người ủng hộ lý thuyết này là một nhóm các chuyên gia người Ý, và theo họ, nó đại diện cho lý tưởng hóa sự ra đời của một người đàn ông, dựa trên thực tế của chính cuộc sống.

Thật không may, kiệt tác của Michelangelo và một trong những kiệt tác nổi tiếng nhất trong thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật tôn giáo và Phục hưng đã bị hư hại do khói nến liên tiếp trong nhiều thế kỷ, khiến bức tranh bị tối đi. đi và trở thành một cái bóng ảm đạm. Trong suốt những năm 1980, trần nhà của Nhà nguyện Sistine đã trải qua một đợt trùng tu quy mô lớn để lộ ra màu sắc thật và các chi tiết bị che giấu trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, việc trùng tu cũng đã gây ra nhiều tranh cãi giữa các nhà sử học nghệ thuật.

Chúa tạo ra Ađam
Chúa tạo ra Ađam

“Bữa tối cuối cùng” – Leonardo da Vinci

Ra đời trong giai đoạn 1495 – 1498, Bức tranh tường Bữa tối cuối cùng Leonardo da Vinci được coi là một trong những kiệt tác của Chúa trong thời kỳ Phục hưng. Bức tranh tường này nằm trên bức tường phía sau phòng ăn của tu viện dòng Đa Minh Santa Maria delle Grazie ở Milan, Ý, được vẽ từ năm 1495-1498. Nó khác hẳn những bức bích họa khác cùng thời do ông Da Vinci tạo ra. ra nó bằng cách sử dụng bột màu thử nghiệm trực tiếp trên vách thạch cao. Nhưng dù chưa kịp hoàn thiện, lớp sơn trên tường đã bong tróc. Ý tưởng của bức tranh dựa trên bối cảnh bữa ăn cuối cùng của Chúa Giê-su với 12 môn đệ, thời điểm Chúa công bố rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội mình.

Bức tranh cho thấy những phản ứng rất nhạy bén của 12 môn sinh. Bartholomew, Little James (James Minor), Andrew, cả 3 đều rất ngạc nhiên. Giuđa ngạc nhiên, Phêrô nắm chặt con dao phẫn nộ, còn Gioan – môn đệ nhỏ tuổi nhất – ngất xỉu. Đó là nhóm bên trái. Bên phải là Thomas có vẻ buồn bã, Big James (James Major) sững sờ, Philip lộ ra vẻ mặt muốn giải thích. Còn Jude Thaddeus và Matthew thì nhìn Simon với vẻ mặt … ngàn dấu chấm hỏi.

Nhìn chung, nội dung của bức tranh hướng trực tiếp đến một giai thoại trong kinh thánh. Tuy nhiên, các chuyên gia mỹ thuật đánh giá đây là một tác phẩm cực kỳ phức tạp, trình bày một hệ thống toán học và tâm lý học rất phức tạp, đưa ra những cái nhìn đa chiều, xứng đáng là một tác phẩm tiên phong. , vượt trội về thẩm mỹ trong nghệ thuật thời kỳ Phục hưng.

Bữa ăn tối cuối cùng
Bữa ăn tối cuối cùng

“Pesaro Madonna” – Titian

Tranh “Pesaro Madonna” Được vẽ từ năm 1519 đến năm 1526, bức tranh mô tả Đức Trinh Nữ và Chúa trên đỉnh bục giảng được nâng lên. Người phụ trách bức tranh, Jacobo Pesaro được cho thấy đang quỳ gối trước Đức Trinh Nữ và dâng lên Đức Trinh Nữ qua Thánh Peter. Titian cho thấy người bảo trợ của mình trong tư thế thành kính, quỳ gối trước Đức mẹ Đồng trinh và được Thánh Peter tặng cho cô ấy. Nổi bật trên bức tranh là chiếc chìa khóa của Thánh Peter, mặt phẳng chéo của nó, hướng về phía Đức mẹ Đồng trinh, tương đương với mặt phẳng của Jacopo. Vị trí của Virgin ở trên cùng của các bậc thang ám chỉ đến các vai diễn trên trời của cô ấy như Madonna della Scala (Madonna of Stairs) và trong vai Stairway to Heaven. Titian thực sự đã sử dụng vợ mình, người đã chết trong khi sinh con ngay sau đó, làm hình mẫu cho Đức mẹ Đồng trinh trong tác phẩm này.

Các biểu ngữ lớn màu đỏ ở ngoài cùng bên trái hiển thị nổi bật cánh tay của Giáo hoàng ở trung tâm và những người đàn ông của Jacopo bên dưới. Cũng được hiển thị là một nhánh nguyệt quế, một biểu tượng của chiến thắng. Một hiệp sĩ không rõ danh tính có hai tù nhân trong xe, Turk và Moor, có lẽ là ám chỉ đến chiến thắng của Jacopo trước quân Thổ vào năm 1502. Ở bên phải, Saint Francis of Assisi hợp nhất năm thành viên gia đình Pesaro đang quỳ xuống với Chúa Kitô, cho thấy điều đó thông qua chính bản thân mình. có thể đạt được sự đồng nhất với sự cứu rỗi của Đấng Christ. Ngay sau Saint Francis là Saint Anthony of Padua – cả hai, giống như Saint Bernardino, đều là tu sĩ dòng Phanxicô, cũng như nhà thờ Santa Maria Gloriosa dei Frari.

Các thành viên trong gia đình của người hiến tặng đều bất động. Tất cả các nhân vật khác đang hoạt động và chiếm các mặt phẳng đường chéo. Các bậc thang, bị cắt ngang bởi các cột lớn bị cắt bỏ ở trên cùng, được đẩy theo đường chéo trở lại không gian. Thiên thần con xuất hiện trong đám mây trên. Một người được nhìn thấy ở phía sau đang xem Cross. Mặt sau của thiên thần này được gắn với Chúa Kitô trẻ sơ sinh, người đang nằm trên đùi của Đức Maria và nhìn xuống Thánh Phanxicô, người đã quay lại nhìn anh ta. Các loại vải đặc trưng phong phú và nhiều họa tiết, đặc biệt là cờ và trang phục. Sự chú ý đến kết cấu vật liệu này càng được tăng cường nhờ sự xen kẽ của các đèn sáng và các điểm nhấn tối trên bầu trời. Ánh đèn của Venice, lấp lánh trên dòng sông của nó, dường như chiếu sáng bức tranh này.

Bàn thờ San Zaccaria - Giovanni Bellini
Bàn thờ San Zaccaria – Giovanni Bellini

“Bàn thờ San Zaccaria” – Giovanni Bellini

Bức tranh sơn dầu này được vẽ vào năm 1505 bởi Giovanni Bellini. Nó là một trong những ví dụ điển hình nhất về cái gọi là thánh địa đàm đạo hay “câu chuyện thiêng liêng” do các nghệ sĩ thời Phục hưng Ý phát triển và thay đổi. thay thế các dạng polyptych cứng nhắc của thời kỳ trước đó.

Đức mẹ đồng trinh Mary với em bé Chúa Giêsu ở trung tâm được mô tả với bốn vị thánh Cơ đốc giáo – Thánh Peter và Thánh Catherine of Alexandria ở bên trái, và Thánh Gerome và Thánh Lucy ở bên phải – và một thiên thần chơi violin ở chân bàn thờ. Bức tranh được đặt trong nhà thờ San Zaccaria ở Venice, Ý.

Bức tranh giúp mọi người thấy được mãi mãi vẻ đẹp và sự vĩ đại của Thiên Chúa, luôn tin rằng “thiện ác hữu báo”, kẻ làm ác sẽ bị quả báo, người tốt sẽ được đền đáp, người tu hành sẽ được lên thiên đàng.

Pesaro Madonna - Titian.
Pesaro Madonna – Titian.

Bức tranh “Sự phán xét cuối cùng” – Hieronymus Bosch

Bộ ba chân này được họa sĩ người Hà Lan vẽ từ năm 1505 đến năm 1510 và bao gồm ba bức tranh:

  • Hình bên trái mô tả Vườn Địa Đàng khi Adam và Eve bị cám dỗ bởi Con rắn trên cây.
  • Bức giữa mô tả cuộc phán xét cuối cùng với Chúa Giêsu trên ngai vàng, thẩm phán của thế giới.
  • Bức tranh bên phải mô tả địa ngục, nơi có khung cảnh rất giống với bức tranh trung tâm, nhưng thay vì Chúa Giêsu, nó lại mô tả Satan đã tiếp nhận linh hồn của những người bị đày xuống địa ngục.

Chủ đề ‘tội lỗi và sự trừng phạt’ là trọng tâm trong tất cả các tác phẩm của Bosch. Hình ảnh trung tâm đại diện cho tội lỗi thông qua phép ẩn dụ về cỗ xe lớn chở cỏ khô, mà thế giới tham lam đang tiến hành. Cùng lúc đó, ác quỷ đang kéo cỗ xe sang bức tranh bên phải – một trong những bức tranh mô tả địa ngục đầu tiên của Bosch.

Chúa xuất hiện trên đỉnh bức tranh “Vườn Địa Đàng”, với một quả cầu trên tay tượng trưng cho vũ trụ. Ba cảnh dưới đây cho thấy “Sự sáng tạo của Ê-va”, “Ăn trái cấm,” và “A-đam và Ê-va bị trục xuất khỏi Vườn Địa đàng” theo thứ tự thời gian. Các tác phẩm tiền Phục hưng thường sử dụng kỹ thuật mô tả cảnh theo trình tự thời gian để chúng có thể được ‘đọc’ như một câu chuyện.

Trong bức ảnh trung tâm, những người đàn ông và phụ nữ đang túm tụm quanh một cỗ xe chở đầy cỏ khô, cố gắng tranh giành một ít cỏ khô với tất cả sức lực và dụng cụ của họ. Họ đi xa đến mức giết người khác chỉ vì một nắm cỏ. Một nhóm tăng ni ở góc dưới cùng bên phải đã lấy được một bao cỏ. Một số người trong số họ đang phân chia và tích trữ cỏ, trong khi những người khác đang tận hưởng cỏ. Ngay cả nhà vua, giám mục và quý tộc cũng lo lắng đuổi theo bên phải xe ngựa. Không ai nhận ra rằng ma quỷ đang kéo cỗ xe xuống địa ngục (sang hình bên phải). Bức tranh này của Bosch đã minh họa một cách tuyệt vời câu ngạn ngữ của người Flemish “Thế giới là một đống cỏ khô, và người ta cố gắng nhổ càng nhiều càng tốt”.

Phán quyết cuối cùng, Hieronymus Bosch
Phán quyết cuối cùng, Hieronymus Bosch

▪️ TIP.EDU.VN chia sẻ tài liệu môn Toán các lớp 1 , 2 , 3 , 4 , 5 , 6 , 7 , 8 , 9 , 10, 11, 12 và ôn thi THPT Quốc gia, phục vụ tốt nhất cho các em học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh trong quá trình học tập – giảng dạy.
▪️ TIP.EDU.VN có trách nhiệm cung cấp đến bạn đọc những tài liệu và bài viết tốt nhất, cập nhật thường xuyên, kiểm định chất lượng nội dung kỹ càng trước khi đăng tải.
▪️ Bạn đọc không được sử dụng những tài nguyên trang web với mục đích trục lợi.
▪️ Tất cả các bài viết trên website này đều do chúng tôi biên soạn và tổng hợp. Hãy ghi nguồn website https://tip.edu.vn/ khi copy bài viết.

Rate this post