Chia sẻ những tip thiết thực

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan để thấy một phong cách thơ trầm lắng, sâu kín, đầy hoài cảm trong một tứ thơ trữ tình đặc sắc. Bên cạnh đó, một bức tranh tả cảnh ngụ tình cũng được gợi lên từ tâm trạng của người nữ sĩ. Qua đèo ngang không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối của một tấm lòng yêu nước thương dân. Cùng Tip.edu.vn phân tích và phát biểu cảm nghĩ về bài thơ qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan qua bài viết dưới đây nhé. 

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Những câu thơ trên trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan đã vẽ ra trước mắt một người đọc một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc về khung cảnh hữu tình của Đèo Ngang. Tuy nhiên, bên cạnh bức tranh về cảnh vật, người đọc như còn cảm nhận được từ trong câu chữ ấy cả tiếng lòng thầm lặng, nỗi niềm sâu kín của tác giả đối với đất nước, quê hương.

Tìm hiểu về Bà Huyện Thanh Quan và Qua đèo ngang

Trước khi phân tích hay phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả cũng như tác phẩm.

Đôi nét chính về Bà Huyện Thanh Quan 

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ nổi tiếng sống ở giai đoạn đầu của thế kỉ XIX, Bà quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, Thăng Long (nay là Hà Nội). Bà có tên thật là Nguyễn Thị Hinh nhưng người đời thường quen gọi là Bà Huyện Thanh Quan vì chồng bà là Lưu Nghi, từng đảm nhiệm chức tri huyện Thanh Quan (Thái Bình). 

Bà vốn xuất thân trong một gia đình quan lại coi trọng việc học hành, chính vì thế nên bà có vốn hiểu biết khá rộng về chữ Nôm. Bên cạnh đó, bản thân bà lại là một người nhạy bén trong học tập và có tâm hồn nhạy cảm với cuộc đời và bà đã bộc lộ những khả năng đó của mình trong lĩnh vực sáng tác thơ ca chữ Nôm. 

Về sự nghiệp văn chương, những sáng tác của bà được lưu lại không nhiều, hiện người đời có thể tìm được sáu bài thơ Đường luật mà bà đã để lại, có thể kể tên như: “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”,  “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ”, “Tức cảnh chiều thu”“Qua Đèo Ngang”

Tất cả những bài thơ này đều được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Tuy số lượng những tác phẩm để lại không nhiều nhưng người đời có thể thấy được bà đã thể hiện trong thơ mình một giọng thơ man mác buồn, ngôn ngữ mực thước, trang trọng và chất chứa trong đó là nỗi niềm hoài cổ và cái nhìn trĩu nặng tâm tư về nhân thế.

Giới thiệu bài thơ Qua đèo ngang

Trước khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta cần nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đó là trong lần bà Huyện Thanh Quan được vua Minh Mạng vời vào kinh đô Phú Xuân (Huế) để nhậm chức Cung trung giáo tập. Trong chuyến đi ấy, bà đã có dịp đi qua địa danh Đèo Ngang vốn là một nơi có cảnh trí thiên nhiên đầy ấn tượng. Dù đường đèo quanh co, trúc trắc nhưng một bên có biển xanh mênh mông, bên kia lại có núi cao trập trùng đã tạo nên sự hùng vĩ hữu tình của nước non. 

Cảnh đẹp ấy đã lọt vào tầm mắt của bà Huyện Thanh Quan và cũng giống như biết bao nhiêu văn nhân, thi sĩ khác, bà đã mượn cảnh Đèo Ngang làm đề tài ngâm vịnh. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật như đã giới thiệu ở phần trên. Đây vốn là thể thơ có niêm luật chặt chẽ với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết và mỗi phần có nhiệm vụ riêng để có thể hoàn thành nhiệm vụ làm toát lên nội dung chủ đề của tác phẩm.

phát biểu cảm nghĩ về bài thơ qua đèo ngang của bà huyện thanh quan
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Bức tranh thiên nhiên trong nỗi niềm của người thi nhân

Qua hai câu thơ đầu của bài thơ, bà Huyện Thanh Quan đã tái hiện trước mắt người đọc cả không gian và thời gian của Đèo Ngang khi nhân vật trữ tình đặt chân đến địa danh này:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”

Nhà thơ đã chọn một khoảnh khắc mang tính nghệ thuật thường xuất hiện trong thơ để miêu tả phong cảnh Đèo Ngang. Đó là thời điểm ngày dần tàn, trời tắt nắng, cả thiên nhiên vạn vật xuất hiện trên cái nền của “bóng xế tà”. Rõ ràng đây là khoảng thời gian gợi lên trong lòng người nhiều suy ngẫm sau những mỏi mệt của một ngày dài.

Phải chăng, trải qua một hành trình rất dài từ Thăng Long vào Huế, khi “bước tới Đèo Ngang”, bản thân nhà thơ cũng chất chứa những nỗi niềm sâu kín nhưng chưa có cơ hội trải lòng. Đến khi ánh sáng bắt đầu tàn lụi để nhường chỗ cho bóng xế ban chiều cũng là lúc kịp đặt chân đến Đèo Ngang, có cơ hội hướng tầm mắt bao quát cảnh vật. 

Những cảm xúc hoài vọng về quê hương, về nơi chôn nhau cắt rốn của nhà thơ lại dạt dào và hóa thành những dòng thơ. Không chỉ nhắc đến thời gian khi đặt chân đến Đèo Ngang mà tác giả còn gợi ra sự xuất hiện của thiên nhiên, cảnh vật trong không gian núi đèo. Đó là sự “chen” nhau của cỏ cây, đá núi, hoa lá. 

Khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy trong câu thơ có tổng cộng bảy tiếng nhưng từ “chen” đã được điệp lại hai lần đã góp phần tạo nên một bức tranh thiên nhiên hoang vu nhưng rậm rạp. Sức sống của thiên nhiên nơi Đèo Ngang cũng vì thế mà hiện lên rất đỗi tự nhiên, mạnh mẽ.

Bức tranh cuộc sống hiện lên trong bài thơ

Bên cạnh việc thể hiện sự sống của thiên nhiên, với hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã làm xuất hiện trong bức tranh cảnh vật ấy bóng dáng của con người:

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”

Thông thường, một bức tranh thiên nhiên khi có sự xuất hiện của con người thì cũng trở nên sống động hơn và mang lại cảm giác hài hòa giữa nhân với cảnh. Thế nhưng, khi con người xuất hiện trong tranh ấy với bóng dáng nhỏ nhoi và sự ít ỏi, trong trạng thái “lác đác”, trong tư thế “lom khom” thì lại càng làm cho không gian cảnh vật thêm hoang vắng, mênh mông. 

Nói như vậy là bởi giữa không gian rộng lớn, hùng vĩ, bát ngát trùng mây của Đèo Ngang nhưng chỉ xuất hiện đôi nét phác họa về vài chú tiều, về những mái nhà, khu chợ thưa thớt. Con người chính vì vậy trở nên nhỏ bé vô cùng trước sự vô hạn của không gian. Như vậy, trên khung nền của cảnh thiên nhiên núi đèo bát ngát, bao la, mặc dù có sự hiện hữu của đời sống con người nhưng nếu đó chỉ là sự xuất hiện thấp thoáng, ít ỏi thì chỉ càng tô đậm thêm sự hoang sơ, trập trùng, và bất tận của cảnh mà thôi. 

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy hai câu thơ đã thể hiện việc tác giả sử dụng rất khéo léo nghệ thuật đăng đối. Nếu câu trước có “tiều vài chú”, thì câu sau có sự xuất hiện của “chợ mấy nhà”, nếu câu trước những chú tiều ở trong tư thế “lom khom dưới núi” thì câu sau những gian nhà, phiên chợ chỉ “lác đác bên sông”

Đặc biệt, với phép đảo trật tự cú pháp, để tính chất của hình ảnh lên trên trước sự xuất hiện của nó (thay vì viết “Vài chú tiều lom khom dưới núi”“Chợ mấy nhà lác đác bên sông” thì nhà thơ lại viết thành “Lom khom dưới núi, tiều vài chú”“Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”) cùng với sự kết hợp các từ láy “lác đác”, “lom khom” đã có tác dụng gợi hình cho và nhấn mạnh sự leo lét của sự sống con người ở hai câu thực này.

Tâm trạng tác giả trong khung cảnh chiều buồn

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, người đọc còn nhận ra rằng trước khoảnh khắc tắt nắng của một ngày, không gian mênh mông, hoang sơ và đời sống con người thì thưa thớt, vắng vẻ, tâm trạng của nhân vật trữ tình mới thêm trĩu nặng những nỗi niềm, tâm tư:

“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Trong hai câu thơ trên, bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng điển tích về chim quốc quốc và chim gia gia. Theo chuyện xưa tích cũ, vua Thục Đế do bị mất nước nên rất đau lòng đến nỗi ngày đêm kêu gào và tiếng kêu cất lên chính là tiếng “quốc quốc” (nghĩa là đất nước) và về sau chim quốc quốc được xem là sự hóa thân của nhà vua mà thành. 

Loài chim thứ hai là chim gia gia, còn có tên gọi khác là đa đa lại xuất phát từ câu chuyện liên quan đến hai nhân vật là Bá Di và Thúc Tề. Đây đều là những bề tôi trung thành, chính trực của nhà Thương. Khi đất nước xảy ra biến cố, trước nguy cơ nhà Thương bị sụp đổ vì uy quyền, thanh thế của nhà Chu, Bá Di và Thúc Tề vẫn giữ đạo trung quân, họ cả đời chỉ thờ một vua chứ không thể mang danh kẻ phản bội. Dù có chết họ cũng chịu chứ không chấp nhận sống chung với nhà Chu. 

Đến khi qua đời, linh hồn hai người họ đã hóa thành chim đa đa và không ngớt lời kêu “bất thực cốc Chu gia” (nghĩa là “Không ăn thóc nhà Chu”). Từ gia xuất hiện trong tiếng kêu ấy lại đồng âm với từ gia (có nghĩa là nhà). Do vậy, khi nhắc đến hai điển tích về nghĩa tình sâu nặng đối với nước nhà của những nhân vật cổ xưa, dường như nhà thơ cũng muốn gửi gắm trong đó một nỗi niềm sâu kín về sự thay ngôi đổi vị trong thời đại của mình. 

Tâm trạng “nhớ nước”, “thương nhà” của nhà thơ đã làm toát lên một tấm lòng đáng trân trọng và cần được cảm thông. Bởi vì, trước khi đến Huế, nhân vật trữ tình đã có một khoảng thời gian dài sống và gắn bó với mảnh đất Thăng Long. Chính hình ảnh về vùng đất và con người nơi ấy đã in sâu vào tâm trí của nhà thơ. Nó đã trở thành một miền kí ức dạt dào để đến lúc rời xa, trong thâm tâm bà nảy sinh những cảm xúc “nhớ”, “thương” trên là điều không thể tránh khỏi. 

Do vậy, khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang ta thấy Đèo Ngang vốn đã hoang vắng, u tịch nhưng cũng không thể trở nên rộn rã, vui tươi hơn khi có sự xuất hiện của âm thanh tiếng chim. Bởi, tiếng kêu tha thiết, xót xa như vậy thì chỉ làm tăng thêm vẻ cô liêu, buồn vắng của cảnh vật. Tiếng kêu của những loài chim ấy là một cách ẩn dụ cho tiếng lòng của một tâm hồn hoài vọng về sự thịnh suy của triều đại đã qua.

Khi tâm trạng không thể cất giấu mãi hoài vào trong trong cảnh vật, tác giả đã bộc lộ nó một cách trực tiếp qua hai câu thơ cuối:

“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Những câu thơ tiếp tục gợi ra sự đối lập giữa một con người nhỏ bé, đơn độc với sự rợn ngợp, bao la của non nước mây trời Đèo Ngang. Khi con người đã có dịp cùng trải qua bao thăng trầm với lịch sử dân tộc, con người ấy như bỗng nghiệm ra một điều: đời người chỉ là hữu hạn trong sự vô cùng của thiên nhiên, đất nước…

Cách cắt mảnh các hình ảnh “trời”, “non”, “nước” và những từ mang ý nghĩa riêng lẻ “một”, “mảnh”, “riêng”, “ta” đã làm nổi bật lên trên sự bất tận, bao la của tạo vật là nỗi trống vắng, cô đơn của con người. Con người ấy lại không thể tỏ bày cùng ai những nỗi niềm đang chất chứa mà chỉ có thể bầu bạn với chính mình (“ta với ta”) thì lại càng trở nên cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết. 

Vốn là người đất Bắc nhưng khi thời thế thay đổi, một người phụ nữ dù có mạnh mẽ đến đâu nhưng khi đặt chân đến một vùng đất mới, nhận nhiệm vụ mới của một triều đại mới thì làm sao không khỏi nhớ về gia đình và tiếc nuối về một triều đại đã tàn lụi. Do vậy, khi đứng trước ranh giới giữa hai miền đất – một đã từng gắn bó sâu đậm, một lạ lẫm mới mẻ, có tâm sự nhưng không biết thổ lộ cùng ai, bà Huyện Thanh Quan đã chọn cách gửi hết cái tình của mình vào cảnh trong phút “dừng chân đứng lại” hướng tầm mắt lên khắp cảnh vật bao la.

Nhận xét khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang 

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang ta thấy bà Huyện Thanh Quan đã phác họa trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” không chỉ là bức tranh về ngoại cảnh về thiên nhiên mà còn là bức tranh về tâm trạng của con người. Chính sự hùng vĩ, thoáng đãng nhưng heo hút, thưa thớt sự sống của con người nơi Đèo Ngang đã làm tô đậm thêm sự man mác, sầu bi và cô đơn của nhân vật trữ tình.

Một trong những đặc sắc về nghệ thuật ở tác phẩm này là việc sử dụng thành công biện pháp tả cảnh ngụ tình. Ngoài ra, việc kết hợp các từ tượng hình, tượng thanh, điển tích, phép đảo ngữ và thủ pháp đăng đối đã tạo nên những ấn tượng trong lòng người đọc về một tác phẩm mang tính mực thước, cổ điển về chủ đề cũng như hình thức thể hiện như “Qua Đèo Ngang”.

Kết bài: Tóm lại, thông qua bài thơ “Qua Đèo Ngang”, người đọc thấy hiển hiện rõ nét cả bức tranh phong cảnh và bức tranh tâm cảnh mà bà Huyện Thanh Quan gửi gắm. Từ việc phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang cũng như cảm nhận những tâm tư mà bà thể hiện trong bài, ta lại thấy trân trọng hơn những người như bà vì đã dành tình yêu thương thiết tha, nồng nàn cho quê hương, xứ sở dù phải rời xa và đi đến bất cứ nơi nào.

Dàn ý phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang 

Để giúp các bạn nắm được những ý chính trong bài viết cũng như nội dung và ý nghĩa của tác phẩm, Tip.edu.vn sẽ giúp bạn khái quát hóa dàn ý cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan.

Mở bài phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang

  • Giới thiệu tác giả Bà Huyện Thanh Quan cùng tác phẩm Qua đèo ngang.
  • Nêu một số ý chính về giá trị của bài thơ Qua đèo ngang.

Thân bài phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang

  • Những nét vẽ về bức tranh thiên nhiên trong nỗi sầu của nữ sĩ.
  • Hình ảnh về cuộc sống qua cái nhìn trầm mặc của tác giả. 
  • Tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trong khung cảnh ấy.

Kết bài phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang

  • Tóm lược nội dung của bài thơ cũng như khái quát về giá trị và ý nghĩa của tác phẩm.
  • Bày tỏ, phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang đã cho ta thấy đây là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó, ta cũng thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của Bà Huyện Thanh Quan khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình trầm mặc đầy nỗi niềm tiếc nuối về một thời đã qua… Có thể nói, phải thật giàu cảm xúc với tình yêu thiên nhiên và con người bao la thì nữ sĩ mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như thế. Hy vọng bài viết trên đây của Tip.edu.vn đã giúp bạn có những kiến thức hữu ích về chủ đề “phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang”. Chúc bạn luôn học tốt!. 

Xem thêm: 

  • Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
  • Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh
  • Cảm nhận hình ảnh ánh trăng trong thơ Bác – Top 1 bài viết HAY NHẤT!

Xem thêm nhiều bài viết hay về Hỏi Đáp Văn Học

▪️ TIP.EDU.VN chia sẻ tài liệu môn Toán các lớp 1 , 2 , 3 , 4 , 5 , 6 , 7 , 8 , 9 , 10, 11, 12 và ôn thi THPT Quốc gia, phục vụ tốt nhất cho các em học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh trong quá trình học tập – giảng dạy.
▪️ TIP.EDU.VN có trách nhiệm cung cấp đến bạn đọc những tài liệu và bài viết tốt nhất, cập nhật thường xuyên, kiểm định chất lượng nội dung kỹ càng trước khi đăng tải.
▪️ Bạn đọc không được sử dụng những tài nguyên trang web với mục đích trục lợi.
▪️ Tất cả các bài viết trên website này đều do chúng tôi biên soạn và tổng hợp. Hãy ghi nguồn website https://tip.edu.vn/ khi copy bài viết.

Rate this post