Chia sẻ những tip thiết thực

Phân tích 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Hôm nay dethihsg247.com sẽ gửi đến các em học sinh 3 mẫu Phân tích 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cực hay. Hi vọng các em sẽ tham khảo để cho ra một bài văn thật hay cho bản thân mình nhé. Chi tiết ra sao mời các em xem ở bên dưới nhé.

dethihsg247.com-chinh-phu-ngam-khuc

Mẫu phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ số 1

Đặng Trần Côn là một tác giả văn học nổi tiếng sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động nên của đất nước khi mà chiến tranh đã làm chia cắt bao gia đình. Có biết bao nhiêu cặp vợ chồng vừa xây dựng hạnh phúc lứa đôi đã phải chia tay để chồng đi chinh chiến phương xa. Từ sự cảm thương với số phận con người trong thời chiến, ông đã viết nên tác phẩm “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là một trong những đoạn trích tiêu biểu nói về tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người vợ trẻ khi chồng ra trận vắng nhà.

Ngay từ tám câu thơ đầu, tác giả đã mở ra một tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

Nỗi cô đơn của người chinh phụ đã được thể hiện trước hết qua hành động một mình nàng dạo hiên vắng. Buông rèm rồi lại cuốn rèm không biết bao nhiêu lần. Hành động này thể hiện sự bối rối, tâm trạng thất thần nhớ nhung khiến cho người phụ nữ còn không thể kiểm soát được hành động của mình. Đó là tâm trạng chờ đợi mong ngóng, tin tức người chồng phương xa. Nỗi buồn nỗi cô đơn của người chinh phụ còn được diễn tả qua sự đối bóng của người với ngọn đèn khuya.

Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Hai câu thơ được tác giả viết hình thức câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bế tắc của người chinh phụ. Nàng hỏi đèn để mong muốn tìm được một sự đồng cảm, sẻ chia, nhưng rồi tự trả lời rằng đèn không biết. Hình ảnh ngọn đèn cùng với nỗi lòng của người chinh phụ như càng góp phần khẳng định nỗi buồn triền miên, cô đơn, không ai chia sẻ.

  • Xem thêm: Cảm nhận 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Đoạn thơ 8 câu cuối có sự chuyển đổi tinh tế để phù hợp với diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. Từ những lời tự sự miêu tả nội tâm, đến đoạn thơ này có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ của tác giả.

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Đoạn thơ này, tác giả chủ yếu sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tức là dùng ngoại cảnh để miêu tả tâm trạng nhân vật, dùng cái chủ quan để miêu tả cái khách quan. Vì thế, trong bài thời gian vật lí đã biến thành thời gian tâm lý. Tiếng “gà eo óc gáy” là âm thanh báo hiệu năm canh và bóng cây “hòe” tĩnh mịch trong đêm nhằm làm tăng ấn tượng vắng vẻ, cô đơn đáng sợ.

Trong tâm trạng chờ đợi mỏi mòn đó người chinh phụ thấy thời gian trôi qua một cách chậm chạp, một khắc một giờ mà giống như một năm.

Và để giải tỏa nỗi niềm sầu muộn, người chinh phụ đã biết tìm đến những thú vui tao nhã thường ngày: “soi gương, đốt hương, gãy đàn”. Nhưng tất cả chỉ làm trong sự gượng gạo, miễn cưỡng chán chường.

Thành công của đoạn trích này là ở khả năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng tinh tế với bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của văn học trung đại và sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ…

Chỉ với 16 câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện được tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm được xem là tiếng kêu thương của người phụ nữ nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa.

Mẫu phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ số 2

“Chinh phụ ngâm khúc” là một trong những kiệt tác của danh sĩ, nhà thơ Đặng Trần Côn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, được mọi người biết đến qua bản tương truyền của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bộc lộ rõ tâm trạng u buồn, nhớ nhung của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi, vì chồng phải tham gia vào trận đánh chiến tranh tàn khốc. Tác phẩm thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo và sự lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến con người phải chia cắt.

  • Xem thêm: Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Trong 16 câu thơ đầu tiên, tác giả thể hiện nỗi cô đơn của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi, cảm giác về thời gian chờ đợi, cố tìm cách giải khuây mà không được. Đến 11 câu thơ tiếp theo, thi nhân đã họa lại nỗi nhớ thương chồng ở phương xa của người chinh phụ khiến lòng nàng càng thêm ảm đạm. Trong những câu thơ còn lại, cảnh vật xung quanh càng khiến lòng người chinh phụ thêm rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.

Những câu thơ đầu tiên chất chứa tâm trạng nhớ nhung, sầu muộn của người phụ nữ:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Chúng ta thấy người chinh phụ khắc khoải chờ mong chồng dẫu ngày hay đêm. Nằm trong phòng, nàng hết buông rèm xuống lại cuốn rèm lên. Tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả từng động tác, cử chỉ, hành động được lặp đi, lặp lại nhiều lần của người chinh phụ. Những hành động ấy không xuất phát từ bất kỳ mục đích gì, tất cả đều là những động tác vô thức, không chủ đích, không ý nghĩa, cốt chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn, lẻ loi của nàng. Người chinh phụ mong mỏi có được sự đồng cảm, nhưng thực tại lại càng thất vọng: “chim thước” chẳng chịu mách tin, “đèn” không hiểu được tâm sự của mình. Câu hỏi tu từ được sử dụng “đèn biết chăng?”, “đèn chẳng biết” phải chăng là lời thở than, thể hiện nỗi khắc khoải trong đợi chờ vô vọng, day dứt mãi khôn nguôi. Tâm trạng của nhân vật đã chuyển giọng kể tự nhiên, từ lời kể bên ngoài thành lời độc thoại nội tâm da diết, dằn vặt, ngậm ngùi. Hình ảnh “ngọn đèn”, “hoa đèn” cùng với cái bóng trên tường của chính mình gợi cho người đọc nhớ đến hình ảnh đèn không tắt trong bài ca dao vốn rất quen thuộc:

“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt?
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên?”

Nhận thấy trong tám câu thơ tiếp theo, người chinh phụ đã mượn cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm trạng của mình, dùng cái khách quan để miêu tả sự chủ quan:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Âm thanh “tiếng gà eo óc” báo hiệu canh năm, đồng thời như sự minh chứng rằng người vợ xa chồng đã thức suốt đêm dài. Hình ảnh “bóng hòe” ngoài sân, hết ngắn rồi dài, rủ xuống mặt đất, càng khiến không gian thêm ảm đạm, ngột ngạt. Thời gian của xa cách, nhớ thương cùng với tâm trạng da diết khôn nguôi. Cụm từ “gượng” được tác giả diễn tả cách đặc biệt, đi liền với các động từ “gảy”, “soi”, đốt” cùng những đồ vật “đàn”, “hương”, “gương”. Tất cả đều cho thấy, những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm hằng ngày của người phụ nữ, giờ đây vắng chồng, vắng niềm hạnh phúc, tiếng cười, bỗng được tiến hành một cách gượng ép. Đốt hương mà tâm hồn lại chìm đắm vào nỗi sầu tủi miên man. Soi gương lại không cầm được những giọt nước mắt không ngừng rơi vì tủi hổ. Đàn đứt dây, chùng lại, nào có thoát khỏi bể trời đơn côi?

Chúng ta thấy rằng chỉ vỏn vẹn 16 câu thơ đầu tiên, tác giả đã thể hiện rõ nỗi cô đơn, sầu tủi của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi. Nàng cảm giác về thời gian trong đợi chờ, cố tìm cách giải khuây mà không được. Tác giả đã rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng phong phú, tinh vi, sâu kín trong tình cảm của người phụ nữ, càng thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo dành cho người chinh phụ trong hoàn cảnh đơn côi, lẻ loi.

Mẫu phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ số 3

Có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hội. Khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của con người. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là mười sáu câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô đơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi. Hãy cùng thả lòng mình đến với 16 câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” để cảm nhận rõ nét hơn nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến.

Đoạn trích ra đời vào thế kỉ XVIII. Đầu đời vua Lê Hiển Tông, triều đình sai quân đánh dẹp, nhiều trai tráng trong làng phải từ giả người thân ra trận. Khi ấy, cảm nhận được nỗi khổ của những người nông dân, đặc biệt là người vợ lính. Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm, bằng chữ Hán là một khúc ngâm đầy cảm xúc. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nằm từ câu 193 -216 và từ câu 228 – 252 trong nguyên tác. Khi vừa ra đời tác phẩm đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ những nhà yêu thơ, đã có nhiều bản dịch ra chữ Nôm, nhưng bản dịch hiện tại là thành công nhất được viết theo thể song thất lục bát là thể thơ thuần túy của người Việt Nam. Nhưng sau khi bản dịch ra đời lại có tranh cãi rằng bản dịch đấy là của Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm. Phần lớn cho rằng là của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống như người chinh phụ (bà có chồng đi sứ ở Trung Quốc). Mười sáu câu đầu đoạn trích là khung cảnh người chinh phụ chờ đợi chồng trong hoàn cảnh u buồn, đơn độc. Những hành động được tiếp diễn đưa cảm xúc lên cao trào.

Mở đầu cho cảm xúc cô đơn, đau buồn kéo dài theo không gian và thời gian vô tận là hành động chậm rãi:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Hành động được hiện ra với dáng vóc đầy suy tư của người chinh phụ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, như để đi vào cảm xúc. Những động từ “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, không gian im lặng đến mức nghe từng tiếng bước chân. Người chinh phụ dường như đang suy nghĩ trăn trở nên nàng “ngồi” mà lòng thì chẳng để tâm. Tác giả đã sử dụng hình ảnh ” rủ thác đòi phen”- kéo màng lên rồi lại buông màn xuống. Để cho thấy hành động lặp đi lặp lại vô nghĩ. Và rồi dường như có tiếng thầm thì trách móc:

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”

Người chinh phụ bắt đầu giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình. Thực sự nàng đang rất nhớ người chinh phu điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “chim thước”- chim khách, là loài chim thường mang tin tốt lành. Nàng trách chim thước chẳng báo một chút tin tức nào của người chồng, để nàng phải đợi mong, cô đơn khắc khoải. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm tất cả không gian bên trong và bên ngoài phòng khuê. Và nàng cũng cần lắm một người tâm sự cùng mình. “Đèn” được nhà thơ nhân hóa lên như một người bạn. Nếu với “Ca dao yêu thương tình nghĩa”: ” Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt” chiếc đèn nguyện cùng cô gái thao thức suốt đêm mộng mơ nhớ thương, thì với Chinh phụ ngâm chiếc đèn lại phũ phàng với người phụ nữ lẻ loi ấy. “Đèn” đã tắt khi người chinh phụ đang cần lắm một sự sẻ chia, “đèn” đã làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “dù thế nào thì đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác” chẳng thể chia sẻ cùng nàng được. Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Như muốn cho người đọc cảm nhận người chinh phụ đã đi qua từng cảm xúc. Và đến khi tuyệt vọng nàng đã nói một câu mà nghe như xé lòng: Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi” nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn cho riêng mình. Bởi vì chẳng có ai bên cạnh để nàng chia sẻ. Biết bao nỗi niềm chất chứa chẳng nói thành lời:

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Nỗi buồn u ám dưới màng đêm, nỗi buồn mà ngay cả nàng cũng chẳng thể nói nên lời được. Có lẽ do nỗi buồn ấy quá lớn và nó lại hiện lên mỗi ngày. Nghệ thuật so sánh “Hoa đèn” với “bóng người”, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời của mình có mau lụi tàn như chiếc hoa đèn kia hay không? Hay còn hẩm hiu hơn thế nữa? Càng nghĩ nàng càng thấy buồn, dường như lúc này cảnh vật cũng rũ xuống một màu đen tối:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khác giời đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Trời đã khuya, không gian yên tĩnh, nghe từng tiếng gà gáy. Âm thanh vang lên “eo óc” thưa thớt, hình ảnh hoa hòe “rũ bóng bốn bên”, thời khắc cảnh vật mỏi mòn chìm vào đêm tối. Đã qua hết năm canh mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu khó vơi đi được. Sự so sánh “khắc giờ” như “niên”, một giờ dài bằng một năm, điều đó càng tô đậm hơn nỗi cô đơn. Thời gian cũng kéo dài cùng với nỗi sầu muộn của nàng. Cùng với từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” cho thấy sự kéo dài triền miên đau đớn cứ mãi day dứt trong lòng. Nghệ thuật lấy động tả tỉnh làm nổi bật lên không gian, thời gian, lấy cái xa của biển cả để nói về cái buồn của lòng người là một cách miêu tả đầy tinh tế. Tiếp đến nàng muốn tìm những thú vui tao nhã, tập cách quên đi nỗi buồn trước mắt:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”

Nhưng nàng chẳng biết rằng những thú vui tao nhã này lại khi nàng chìm đắm vào nỗi sầu mênh mang. Khi đốt hương, hồn nàng lại rơi vào trạng thái mơ màng, nỗi sầu lại theo đó mà dâng lên. Rồi khi soi gương để tô son điểm phấn, nàng lại càng xót xa cho thân phận của mình, nhan sắc của một người phụ nữ đang dần phai mòn đi theo những tháng ngày lẻ loi, không có chồng bên cạnh để làm điểm tựa. Khi đánh đàn nàng lại sợ “dây uyên đứt”, “phím loan chùng” nàng sợ những điều không may xảy đến cuộc tình của nàng. Biết bao nỗi đau đau, nỗi sợ bủa vây lấy nàng. Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần cho thấy sự miễn cưỡng trong hành động. Cũng chỉ vì quá cô đơn, muốn quên đi mà nàng mới làm. Nhưng dù có thú vui tao nhã đến đâu, dù tô son điểm phấn hay đánh đàn thì cũng chẳng bao giờ nàng cảm thấy vui, bởi vì ngay lúc này với nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến sẽ trở về, mong được nghe một lời động viên an ủi từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều không!

  • Xem thêm: Phân tích giá trị nhân đạo thể hiện trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm)

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng những điệp từ, so sánh nhiều hình ảnh để vẽ ra khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. Sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hiện lên chân thực đến đâu thì càng vạch trần cái tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Mà niềm cảm thông lớn nhất là dành cho người chinh phụ, là phụ nữ nhưng họ phải hy sinh tuổi xuân để chờ chồng mà chẳng có chút tin tức, không có ai chia sẻ những nỗi buồn. Từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng Trần Côn rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. Đồng thời là sự sắc sảo trong cách dùng từ của hai dịch giả Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đã tạo nên đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” rất thành công.

Thông qua mười sáu câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ khi có chồng đi chinh chiến. Nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian. Từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Và là lời ca ngợi cho tác giả Đặng Trần Côn, ông quả là một nhà thơ tài năng và tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim của đọc giả và vượt qua hàng trăm năm, nhưng mỗi lần nhắc về những tác phẩm chữ hán, người ta sẽ nghĩ ngay đến “Chinh phụ ngâm”. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.

▪️ TIP.EDU.VN chia sẻ tài liệu môn Toán các lớp 1 , 2 , 3 , 4 , 5 , 6 , 7 , 8 , 9 , 10, 11, 12 và ôn thi THPT Quốc gia, phục vụ tốt nhất cho các em học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh trong quá trình học tập – giảng dạy.
▪️ TIP.EDU.VN có trách nhiệm cung cấp đến bạn đọc những tài liệu và bài viết tốt nhất, cập nhật thường xuyên, kiểm định chất lượng nội dung kỹ càng trước khi đăng tải.
▪️ Bạn đọc không được sử dụng những tài nguyên trang web với mục đích trục lợi.
▪️ Tất cả các bài viết trên website này đều do chúng tôi biên soạn và tổng hợp. Hãy ghi nguồn website https://tip.edu.vn/ khi copy bài viết.

5/5 - (137 bình chọn)